Bản tin Pháp lý - Tháng 5, 2022

Những văn bản nổi bật trong số phát hành này:
  1. Nghị định 20/2022/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 10 tháng 03 năm 2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 119/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2015 của Chính Phủ quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng
  2. Nghị quyết số 27/NQ-CP của Chính Phủ ngày 07 tháng 03 năm 2022 thông qua hồ sơ xây dựng nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân.
  3. Nghị Quyết số 17/2022/UBTVQH15 của Ủy Ban Thường Vụ Quộc Hội ngày 23 tháng 3 năm 2022 về số giờ làm thêm trong 01 năm, trong 01 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
 
BẢO HIỂM

Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự mới trong hoạt động đầu tư xây dựng đối với bên thứ ba theo Nghị định mới 20/2022/NĐ-CP
Vào ngày 10 tháng 3 năm 2022, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 20/2022/NĐ-CP sửa đổi và bổ sung Nghị định số 119/2015/ND-CP về bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng (“Nghị Định 20”). Nghị Định này có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2022 với các quy định đáng chú ý về loại bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự cho bên thứ ba như sau:

1. Chủ thể phải mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba và việc phân bổ chi phí
Bên cạnh các loại bảo hiểm bắt buộc đối với người lao động thi công trên công trường xây dựng, nhà thầu thi công xây dựng còn phải mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba. Đối với các loại bảo hiểm bắt buộc này, phí bảo hiểm được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. 

2. Thời hạn, phạm vi và loại trừ trách nhiệm bảo hiểm của bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba
Thời hạn bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba là khoảng thời gian cụ thể, tính từ ngày bắt đầu đến ngày kết thúc thời gian xây dựng căn cứ vào hợp đồng xây dựng và được ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
Đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba: Doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện trách nhiệm bồi thường cho nhà thầu thi công xây dựng những khoản tiền mà theo quy định của pháp luật nhà thầu thi công xây dựng có trách nhiệm bồi thường cho bên thứ ba đối với những thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng, tài sản phát sinh trực tiếp trong quá trình thi công xây dựng và chi phí pháp lý có liên quan (nếu có) thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm.
Theo Nghị Định 20, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có thêm trường hợp được loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với tổn thất theo tập quán quốc tế do các bên tham gia bảo hiểm thỏa thuận áp dụng nếu tập quán đó không trái với pháp luật Việt Nam.

3. Số tiền bảo hiểm tối thiểu của bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba
Theo Nghị Định 20, số tiền bảo hiểm tối thiểu cho các tổn thất liên quan đến bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba như sau:
(i) Số tiền bảo hiểm tối thiểu đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng là 100 triệu đồng cho một người trong một vụ và không giới hạn số vụ tổn thất; và
(ii) Số tiền bảo hiểm tối thiểu đối với thiệt hại về tài sản và chi phí pháp lý có liên quan (nếu có) được xác định như sau:
  • Đối với công trình có giá trị dưới 1.000 tỷ đồng, số tiền bảo hiểm tối thiểu đối với thiệt hại về tài sản và chi phí pháp lý có liên quan (nếu có) là 10% giá trị công trình cho cả thời hạn bảo hiểm và không giới hạn số vụ tổn thất
  • Đối với công trình có giá trị từ 1.000 tỷ đồng trở lên, số tiền bảo hiểm tối thiểu đối với thiệt hại về tài sản và chi phí pháp lý có liên quan (nếu có) là 100 tỷ đồng cho cả thời hạn bảo hiểm và không giới hạn số vụ tổn thất.
 
4. Trách nhiệm liên quan của Bộ Tài Chính
Căn cứ theo Nghị Định 20, Bộ Tài Chính có trách nhiệm ban hành quy tắc, điều khoản bảo hiểm, mức phí bảo hiểm đối với các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc sau:
(i) Bảo hiểm bắt buộc công trình trong thời gian xây dựng;
(ii) Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm nghề nghiệp tư vấn đầu tư xây dựng;
(iii) Bảo hiểm bắt buộc cho người lao động thi công trên công trường; và
(iv) Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba.
 
BẢO VỆ DỮ LIỆU CÁ NHÂN

Chính Phủ thông qua kế hoạch và hồ sơ xây dựng nghị định mới về bảo vệ dữ liệu cá nhân
Ngày 07 tháng 3 năm 2022, Chính Phủ đã ban hành Nghị Quyết số 27/NQ-CP thông qua hồ sơ xây dựng nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân (“Nghị Quyết 27”).

1. Các trường hợp dữ liệu cá nhân được xử lý không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu
Theo Nghị Quyết 27, việc xử lý dữ liệu cá nhân sẽ được thực hiện mà không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu trong các trường hợp sau:
(i) Việc xử lý là cần thiết để ứng phó với tình huống khẩn cấp đe dọa đến tính mạng, sức khỏe hoặc sự an toàn của chủ thể dữ liệu hoặc cá nhân khác. Bên Kiểm soát dữ liệu, Bên Xử lý dữ liệu, Bên Kiểm soát và xử lý dữ liệu, Bên thứ ba có trách nhiệm chứng minh trường hợp này.
(ii) Việc công khai dữ liệu cá nhân theo quy định của luật.
(iii) Việc xử lý là cần thiết vì yêu cầu quốc phòng, an ninh quốc gia, được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của luật khác.
(iv) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật theo quy định của luật.
(v) Dữ liệu cá nhân được xử lý bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền với mục đích phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước theo quy định của luật.

2. Chính Phủ thông qua nội dung dự thảo Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân
Dự thảo Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân đã được Chính Phủ thông qua và đang trong quá trình xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định pháp luật để có hiệu lực thi hành.
Nghị Quyết 27 có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
 
LAO ĐỘNG

Thay đổi số giờ làm thêm trong 01 năm và trong 01 tháng của người lao động theo Nghị Quyết số 17/2022/UBTVQH15
Vào ngày 23 tháng 03 năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội đã ban hành Nghị Quyết số 17/2022/UBTVQH15 của Ủy Ban Thường Vụ Quộc Hội ngày 23 tháng 3 năm 2022 về số giờ làm thêm trong 01 năm, trong 01 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội (“Nghị Quyết 17”). Nghị Quyết này có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 04 năm 2022 với một số điểm thay đổi đáng chú ý về giờ làm thêm như sau:

1. Tăng số giờ làm thêm trong 01 năm
Theo Nghị Quyết 17, người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động  làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong 01 năm đối với một số ngành, nghề nhất định, trừ các trường hợp sau đây:
(i) Người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi;  
(ii) Người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
(iii) Người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;
(iv) Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; hoặc
(v) Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

2. Tăng số giờ làm thêm trong 01 tháng
Căn cứ theo Nghị Quyết 17, trong trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 01 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 01 tháng.
Như vậy, bên cạnh việc tăng số giờ làm thêm trong một năm, Nghị Quyết 17 đã tăng số làm thêm của người lao động tối đa từ 40 giờ lên 60 giờ trong 01 tháng.

3. Tổ chức thực hiện
Việc thực hiện quy định về số giờ làm thêm tại Nghị quyết này phải tuân thủ đầy đủ các quy định khác có liên quan của Bộ luật Lao động.
Khi tổ chức làm thêm giờ quy định tại Nghị quyết này, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định. Ngoài ra người sử dụng lao động có trách nhiệm áp dụng và thực hiện các chế độ phúc lợi bảo đảm cho người lao động có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động.

____________________________________________________
Bản tin pháp lý này là văn bản hướng dẫn của Công ty Luật TNHH MTV Leadco với mục đích cung cấp các thông tin về môi trường đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Các thông tin và trích dẫn trong văn bản này là các thông tin chung mà không phải là bất cứ tư vấn pháp lý nào của chúng tôi. Trong bất kỳ trường hợp nào Leadco không chịu trách nhiệm cho bất cứ chi phí liên quan trực tiếp hay gián tiếp, trong các trường hợp đặc biệt, các trường hợp ngẫu nhiên, đối với các thiệt hại phát sinh hay liên quan đến việc sử dụng văn bản này.
Để biết thêm thông tin về các vấn đề đã đề cập trong bản tin pháp lý này và các vấn đề pháp lý liên quan khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi.

Tin tức khác

Bản tin Pháp lý - Tháng 1, 2023

Bản tin pháp lý tháng này sẽ đề cập đến các văn bản mới liên quan Thuế

Bản tin Pháp lý - Tháng 12, 2022

Bản tin pháp lý tháng này sẽ đề cập đến các văn bản mới liên quan đến Ngân hàng

Bản tin Pháp lý - Tháng 11, 2022

Bản tin pháp lý tháng này sẽ đề cập đến các văn bản mới liên quan đến Bảo hiểm và Ngân hàng